Cơ quan An toàn Thực Phẩm – Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) vừa qua đã công bố kết quả mới nhất từ Chương trình Giám sát Dư lượng Thuốc BVTV. Các nhóm hoạt động xã hội đang nỗ lực để phủ nhận báo cáo này.
Bạn sẽ làm gì khi những bằng chứng được đưa ra không bổ trợ cho kết luận của bạn? Chỉ có hai sự lựa chọn: thừa nhận bạn đã sai và thay đổi quan điểm để phù hợp với số liệu; hoặc tự trói mình vào nút thắt cố hữu để cố gắng bảo vệ kết luận bạn bất chấp những bằng chứng thực tế và đơn giản là từ chối hợp tác. FDA gần đây đã công bố kết quả từ Chương trình Giám sát Dư lượng Thuốc BVTV năm 2020. Mặc dù các phân tích của FAD đã chỉ ra rằng mức độ rủi ro mà dư lượng thuốc BVTV còn lại trong thực phẩm gây ra cho sức khoẻ con người là rất thấp, thì (mặc dù đã đoán được) nhưng thât đáng buồn là những nhà hoạt động vì môi trường vẫn cố gắng phủ nhận kết luận hiển nhiên đó.
Carey Gillam, nhà hoạt động chống lại thuốc BVTV đã cố gắng hết sức để bác bỏ bản báo cáo của FDA khi nhấn mạnh thông tin trong một bài báo ngày 11/8 trên New Lede với tựa đề “FDA cho biết 59% thực phẩm Hoa Kỳ được kiểm tra có dư lượng thuốc BVTV”. Hãy nhìn vào các con số và cùng phân tích nỗ lực của Gillam khi tấn công vào lĩnh vực báo chí khoa học.
FDA đã tìm thấy gì?
FDA đã phân tích 2.180 mẫu trong năm 2020 trong đó có 2.078 loại thực phẩm cho người và 102 thức ăn chăn nuôi để tìm kiếm dư lượng của khoảng 750 loại thuốc BVTV khác nhau và “các hợp chất công nghiệp” khác. FDA nhận thấy rằng: 96,8% thực phẩm nội địa và 88,4% thực phẩm nhập khẩu cho người dùng phù hợp với các tiêu chuẩn liên bang. Không phát hiện dư lượng hóa chất BVTV trong 40,8% mẫu sản phẩm trong nước và 48,4% mẫu nhập khẩu… 100% mẫu thức ăn chăn nuôi trong nước và 96,8% mẫu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu phù hợp với tiêu chuẩn liên bang. Không phát hiện dư lượng hóa chất BVTV trong 30,0% mẫu thức ăn chăn nuôi trong nước và 48,4% mẫu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Kết quả phù hợp với báo cáo năm ngoái và kết quả của Chương trình Dữ liệu Thuốc BVTV tháng 1/2022 của USDA. Bạn cũng có thể xem lại phân tích của chúng tôi về quy định và an toàn thuốc BVTV nói chung ở Hoa Kỳ. Các kết luận đều ít nhiều giống hệt nhau. Nói một cách ngắn gọn, người tiêu dùng có rất ít lý do để lo lắng về vấn đề an toàn thực phẩm trong trường hợp này.
Tiết mục “gây nhiễu thông tin” của các nhà hoạt động bắt đầu diễn ra
Vậy Gillam đã đối phó với những số liệu không như bà ấy mong đợi như thế nào? Bà tuyên bố rằng “nhiều nhà khoa học và chuyên gia y tế ngày càng nghi ngờ với những kết luận của các cơ quan quản lý về sự an toàn của một chế độ ăn lâu dài có chứa dư lượng thuốc BVTV”. Cụ thể hơn, bà còn bổ sung thêm rằng những chuyên gia đáng kính này đang thắc mắc “việc tiêu thụ lượng thuốc BVTV trong thực phẩm trong một thời gian dài có thể ảnh hưởng gì đến sức khỏe con người và động vật”. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là “nhiều người” theo cách dùng từ của bà Gillam có nghĩa là một số ít những bác sĩ mà bà trích dẫn hầu hết trong mọi bài viết. Bà cũng trích dẫn phát ngôn của chỉ một trong những cá nhân này, một bác sĩ nhi khoa – nhà hoạt động tên là Phil Landrigan, người đã có lịch sử lâu dài ủng hộ phong trào chống lại thuốc BVTV: “Là một bác sĩ nhi khoa, người đã làm việc trong nhiều thập kỷ để bảo vệ trẻ em khỏi những phơi nhiễm độc hại tồn tại trong môi trường, bao gồm cả thuốc BVTV trong thực phẩm, tôi vô cùng lo lắng khi phát hiện ra rằng 59% mẫu thực phẩm của Hoa Kỳ được FDA kiểm tra có chứa một lượng lớn thuốc BVTV độc hại…”
Landrigan không giải thích lý do tại sao ông ta cảm thấy như vậy và đó có lẽ là do có rất ít cơ sở để lo lắng. Sự thật là đã cónhững nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với thuốc BVTV tới tất cả các kiểu loại bệnh tật ốm đau. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó này thường không vượt qua được những đánh giá khoa học kỹ lưỡng. Nếu Tiến sĩ Landrigan có thông tin mới để thúc đẩy cuộc thảo luận, các bậc cha mẹ Hoa Kỳ (bao gồm cả tôi) sẽ rất mong muốn được biết về thông tin đó. Nếu ông ta chỉ cố gắng để tạo nên những mối hiềm nghi, tôi (một lần nữa với tư cách là một người cha) mong rằng ông ta sẽ chỉ giữ nó cho riêng mình. Landrigan nói: “Mặc dù tôi hiểu rằng hầu hết các loại thuốc BVTV này đều tồn tại ở mức thấp hơn tiêu chuẩn thuốc BVTV của liên bang, nhưng tôi cũng biết rằng các tiêu chuẩn này có thể bị ảnh hưởng bởi áp lực chính trị và không phải lúc nào cũng bảo đảm được sức khỏe cho con cái chúng ta.” Gillam nói thêm, “Rõ ràng, EPA đã chấp thuận việc nâng các giới hạn pháp lý đối với một số loại thuốc BVTV nhất định trong những năm qua theo yêu cầu của các công ty bán thuốc BVTV.” Điều này có xảy ra, nhưng đây không nhất thiết là một vấn đề đáng quan ngại. Ví dụ: nếu nông dân cần sử dụng lượng thuốc BVTV cao hơn một chút để kiểm soát dịch hại một cách hiệu quả, EPA có thể cập nhật đăng ký mà họ đã cấp cho một loại hóa chất cụ thể. Việc tái đánh giá và đăng ký là bắt buộc theo Luật liên bang Mỹ. Bên cạnh đó, cơ quan này cũng có thể bổ sung thêm các hạn chế đối với việc sử dụng hóa chất, mặc dù điều này đôi khi được thực hiện vì lý do chính trị và trái ngược với quan điểm của các nhà khoa học EPA.
Dựa trên dữ liệu từ các cơ quan quản lý và các nhà khoa học độc lập, không có lý do gì để nghi ngờ rằng dư lượng thuốc BVTV trong thực phẩm gây hại cho sức khỏe cộng đồng. Có rất nhiều rủi ro thực sự khác cần phải được giải quyết, vì vậy hãy xử lý những vấn đề đó thay vì vò đầu bứt tai chiến đấu với mức độ rủi ro rất thấp của những cá hóa chất vốn đang giúp chúng ta đảm bảo nguồn cung thực phẩm sẵn có.
Bình luận