“Tiếp tục gia tăng sản xuất lương thực trong tương lai đang gặp nhiều thách thức khi khoảng cách về sự hiểu biết ngày một lớn hơn giữa những người sản xuất thực phẩm tại khu vực nông thôn với những người tiêu thụ chúng ở khu vực thành thị – theo thời gian, khoảng cách này tạo ra thông tin gây hiểu lầm. “
Đổi mới đóng vai trò thiết yếu trong nâng cao sản lượng lương thực, cũng như sản xuất lương thực bền vững. Từ năm 1960, sản xuất lương thực đã được hưởng lợi từ những đổi mới trong công nghệ lai tạo giống cây trồng, phân bón, hóa chất và thiết bị canh tác. Những đổi mới này đã giúp gia tăng đáng kể sản lượng lương thực trong khi vẫn diện tích canh tác nông nghiệp đang ngày một thu hẹp. Tuy nhiên, việc tiếp tục gia tăng sản xuất lương thực trong tương lai đang gặp nhiều thách thức khi khoảng cách về sự hiểu biết ngày một lớn hơn giữa những người sản xuất thực phẩm tại khu vực nông thôn với những người tiêu thụ chúng ở khu vực thành thị – theo thời gian, khoảng cách này tạo ra thông tin gây hiểu lầm.
Sự phát triển của các mô hình kinh doanh nhờ vào thông tin sai lệch đã góp phần khiến người tiêu dùng tại các thành phố tiếp nhận thông tin không chính xác về tầm quan trọng của những vật liệu nông nghiệp đối với quá trình sản xuất thực phẩm, dẫn đến những áp lực chính trị nhằm cắt giảm nguồn nguyên liệu này ngày càng lớn. Sử dụng hoá chất nông nghiệp là mục tiêu phổ biến của các chiến lược truyền thông gây lạc hướng. Những phân tích dưới đây sẽ đưa ra các lập luận giải thích về cách thức khi những thông tin từ chính phủ đối với việc sử dụng an toàn hóa chất nông nghiệp này đánh giá ảnh hưởng của việc thiếu rõ ràng trong việc sử dụng hóa chất an toàn của chính phủ đến thông tin đại chúng.
Giới thiệu
Sản xuất lương thực, an ninh lương thực và an toàn thực phẩm là ba khía cạnh quan trọng của ngành nông nghiệp toàn cầu và công nghiệp thực phẩm. Ba khía cạnh này quan trọng đến mức chúng củng cố nhiều Mục tiêu Phát triển Bền vững do Liên hợp quốc đưa ra vào năm 2015, đặc biệt là mục tiêu thứ hai và thứ ba, lần lượt là giảm nạn đói và cải thiện sức khỏe con người.
Trên toàn cầu, sản lượng lương thực đã có sự gia tăng đáng kể từ năm 1960 khi việc sản xuất lương thực không còn đi kèm với nhu cầu gia tăng diện tích đất canh tác. Trong giai đoạn 1960 – 2020, sản lượng lương thực đã tăng 390%, trong khi diện tích đất sử dụng để sản xuất lương thực chỉ tăng thêm 10%1. Sự gia tăng mạnh mẽ này là kết quả của việc ứng dụng đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong việc tạo ra nhiều giống trồng mới, kiểm soát cỏ dại hiệu quả hơn cũng như cải thiện dinh dưỡng cho cây trồng bằng phân bón2,3. Mặc dù 6 thập kỷ qua đã chứng kiến mức gia tăng đáng kể về sản xuất nông nghiệp, nhưng một vấn đề dai dẳng vẫn tồn tại – đó là vẫn còn hơn 800 triệu người phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực trong năm 2022. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do những gián đoạn chuỗi cung ứng trong đại dịch COVID-19; hệ quả của cuộc chiến Nga – Ukraine. Điều đáng lo ngại hơn là khi số lượng người rơi vào tình trạng mất an ninh lương thực đã có xu hướng gia tăng kể từ năm 2015. Thêm vào đó, xu hướng đáng báo động trong việc chính phủ một số quốc gia thực thi những chính sách và quy định đi chệch khỏi các cách tiếp cận dựa trên thực nghiệm.
Nông nghiệp và sản xuất cây lương thực là một trong những lĩnh vực được quan tâm đặc biệt, trong đó có một chiến dịch đáng chú ý của Liên Minh Châu Âu là “Từ Nông trại lên Bàn ăn”. Chiến dịch này ủng hộ cắt giảm hoá chất nông nghiệp, giảm sử dụng phân bón và chuyển sang phương thức canh tác hữu cơ. Đáng tiếc là những đề xuất này thiếu vắng những tham chiếu phù hợp với những bằng chứng thực nghiệm để đảm bảo tính hiệu quả cho việc triển khai4 Hơn nữa, chiến lược này đã cho phép đặc cách các hóa chất hữu cơ – đây được coi là những chất có độc tính cao hơn so với hoá chất tổng hợp và được xác định là có khả năng gây ung thư. Xu hướng phát triển chính sách ngày càng tách khỏi các bằng chứng thực nghiệm đang gia tăng lo ngại về những hậu quả tiềm ẩn. Sự thay đổi như vậy có thể làm tăng hiệu quả của thị trường, nhưng đồng thời chứa nguy cơ gây ra những hậu quả không lường trước được ví dụ như những tác động xấu tới sức khỏe con người do tiếp xúc nhiều với các hóa chất hữu cơ gây ung thư. Do đó, việc các nhà hoạch định chính sách xem xét lại cách tiếp cận của mình và chú trọng tới các bằng chứng khoa học và thực nghiệm khi đưa quyết định luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết hiệu quả những thách thức phức tạp về an ninh lương thực và bảo vệ phúc lợi công cộng.
Việc chuyển đổi mô hình chính sách nông nghiệp từ tiếp cận dựa trên bằng chứng và thực nghiệm sang cách tiếp cận dựa trên phòng ngừa đã cho thấy những tác động tiêu cực đến sản xuất. Những chính sách, quy định và thỏa thuận được tạo dựng dựa trên thực nghiệm đã tạo đà cho sự phát triển trong thế kỷ 20. Một số tổ chức được thành lập như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp ước Quốc tế về Tài nguyên Di truyền Thực vật cho Lương thực và Nông nghiệp và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Bằng cách thiết lập các quy tắc dựa trên thực nghiệm và hệ thống hóa các quy định cũng như thương mại hàng hóa quốc tế, tất cả các nước thành viên đều đạt được những bước tiến mới. Tuy nhiên, những thành tựu to lớn của thế ký 20 đó đã mang lại sự “xa xỉ” cho các xã hội và làm người ta quên đi những thách thức cần giải quyết trước khi thiết lập thể chế theo cách tiếp cận dựa vào thực nghiệm, thay vào đó cho phép họ đề xuất cách tiếp cận dựa trên phòng ngừa như một giải pháp thay thế các chính sách và quy định đưa ra trước đó.
Ở nhiều quốc gia, việc sử dụng hóa chất nông nghiệp được giám sát chặt chẽ khi áp lực về việc cắt giảm và thậm chí là cấm sử dụng ngày một gia tăng. Những thay đổi này bị tác động bởi các chiến dịch đưa thông tin sai lệch do các tổ chức phi chính phủ về môi trường (ENGO) tiến hành. Những chiến dịch này gây nhiễu thông tin cho các bên liên quan, bao gồm những đại biểu/cử tri, chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách từ đó khiến việc xây dựng chính nông nghiệp thiếu bằng chứng thực nghiệm. Điều này đặt ra những câu hỏi thích đáng về những động lực cơ bản đằng sau quá trình chuyển đổi chính sách pháp lý ra khỏi nền tảng là các bằng chứng khoa học và thực nghiệm cũng như những tác động tiềm ẩn của một viễn cảnh mà khi thông tin giả tràn lan cũng như các chính sách phòng ngừa và gánh nặng pháp lý gia tăng.
Bài phân tích này sẽ đi tập trung đánh giá những động lực đằng sau mối tương quan giữa hai quan điểm trái ngược nhau trong lĩnh vực nông nghiệp: một quan điểm ủng hộ sử dụng hoá chất nông nghiệp an toàn dựa trên bằng chứng và thực nghiệm – cách tiếp cận mà nông dân Canada ủng hộ; và một quan điểm chủ trương đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa từ các tổ chức phi chính phủ về môi trường. Mục đích là giúp làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng hiện tại và những hệ quả của nó đối với các quy định và biện pháp canh tác nông nghiệp. Chính vì vậy, việc xem xét kỹ lưỡng các động cơ đằng sau việc đưa thông tin sai lệch cũng như đánh giá tác động khi áp dụng quan điểm phòng ngừa, thiếu bằng chứng vững chắc là rất quan trọng.
LAI TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên có thể được thấy rõ khi năng suất cây trồng liên tục bị đe dọa bởi cỏ dại, sâu và bệnh hại. Cỏ dại nảy mầm với tốc độ chóng mặt vào mùa xuân và có thể cạnh tranh trực tiếp về độ ẩm và chất dinh dưỡng với cây trồng chính. Các nghiên cứu cho thấy, nếu không được quản lý đúng cách, mức độ thiệt hại mà cỏ dại có thể gây ra cho nền nông nghiệp Châu Phi là giảm 80% năng suất trong tình huống xấu nhất. Tuỳ vào từng loại cây trồng, tổn thất năng suất do cỏ dại có thể lên tới 40%, nhưng mức tổn thất trung bình là từ 3-25%. Bệnh hại cũng được báo cáo là có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn khi làm giảm năng suất cây trồng so với cỏ dại, với mức thiệt hại trung bình là 40-60% ở đậu nành. Quản lý sâu hại cũng là một khía cạnh quan trọng trong canh tác vì chúng có thể làm giảm sản lượng cây trồng. Điều này có nghĩa là nếu không có sự chăm sóc và quan tâm đúng mức đến sức khỏe cây trồng, năng suất sẽ giảm nhanh chóng. Bảng 1 dưới đây sẽ tóm tắt mức độ tổn hại gây ra bởi các loại dịch hại trên từng cây trồng. Cần lưu ý thêm là khả năng cỏ dại, côn trùng và bệnh hại có thể cùng một lúc tạo ra những tổn thất tối đa trong cùng một mùa vụ là khó có thể xảy ra, tuy nhiên khi khí hậu thay đổi, nguy cơ từ các tác nhân gây hại này sẽ gia tăng.
Bảng 1. Các tác nhân gây tổn thất năng suất và sản lượng cây trồng
Cây trồng | Cỏ dại | Sâu hại | Bệnh hại | Thiệt hại tích luỹ |
Rau | 8-13% | 4-21% | 8-23% | 20-57% |
Đậu tương | 10-37% | 0-11% | 40-60% | 50-100% |
Ngô | 50% | 15-50% | 8-14% | 73-100% |
Lúa mì | 5-20% | 5-20% | 0-16% | 10-56% |
Cải dầu | 40% | 10-50% | 18-99% | 68-100% |
Lúa gạo | 37-50% | 28% | 15-60% | 80-100% |
Mức độ thiệt hại trung bình | 5-50% | 0-50% | 0-99% | 10-100% |
Cỏ dại thường nảy mầm sớm hơn cây trồng, phát triển với tốc độ nhanh hơn khi cây trồng đã gieo hạt và tạo ra nhiều hạt cỏ hơn, do đó quản lý cỏ dại đúng cách rất quan trọng đối với người nông dân. Các loại cỏ dại như rau dền palmer là một loại cỏ dại đặc biệt độc hại ở miền Nam Hoa Kỳ, có thể tạo ra tới 250.000 hạt trên mỗi cây vào mùa hè. Kochia, một loại cỏ phổ biến ở miền Tây Canada có khả năng tạo ra 25.000 trong mùa hè. Việc thiếu biện pháp quản lý hiệu quả để kiểm soát những loại cỏ dại như vậy có thể làm đất trồng hao hụt khả năng nuôi dưỡng cây trồng do có quá nhiều cỏ dại. Một giống lúa mì có năng suất tốt thường tạo ra 25–30 hạt lúa mì trên mỗi bông, đặc biệt có thể lên tới 40 hạt. Khi cỏ dại có thể sản sinh số hạt nhiều gấp hàng nghìn lần so với cây trồng chính, nếu không có các biện pháp quản lý cỏ dại hiệu quả thì năng suất cây trồng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và doanh thu của nông dân giảm nhanh chóng.
Việc thương mại hóa cây trồng biến đổi gen (BĐG) đã đóng góp đáng kể trong việc hạn chế lượng hóa chất sử dụng đặc biệt là thuốc trừ sâu. Đánh giá từ 147 bài nghiên cứu về những thay đổi trong việc sử dụng hóa chất nông nghiệp sau khi thương mại hóa cây trồng BĐG cho thấy: lượng hóa chất được sử dụng đã giảm 37%. Một nghiên cứu của khu vực phía Tây Canada được thực hiện sau khi thương mại hoá cải dầu BĐG 1 thập kỷ cũng cho ra kết quả tương tự. Khi so sánh lượng sử dụng thuốc trừ cỏ của năm 1995 với năm 2005, người ta xác định rằng trên một diện tích canh tác tương tự nhau, lượng hoạt chất hoá học sử dụng đã giảm 1,3 triệu kg sau 10 năm. Nói cách khác, tỷ lệ giảm lượng hóa chất trừ cỏ sử dụng là 38% giữa hai thời điểm. Bên cạnh đó, tác động đến môi trường của sử dụng hóa chất cũng giảm 53%, đem lại lợi ích cho công nhân trang trại, môi trường cũng như người tiêu dùng.
Một đánh giá tác động toàn cầu ước tính nông dân thiệt hại 7.5 tỷ đô la Mỹ hàng năm nếu cấm glyphosate. Theo đó, việc cấm hoạt chất này sẽ tạo ra tác động tiêu cực đến sản xuất lương thực khi sản lượng đậu tương giảm (18,6 triệu tấn), ngô giảm (3,1 triệu tấn) và cải dầu giảm (1,4 triệu tấn). Chi phí của việc không sử dụng cây trồng BĐG (có khả năng giảm hoá chất nông nghiệp) rất khó đánh giá chính xác vì thiếu cơ sở thực tế. Một nghiên cứu khác đánh giá chi phí của việc không áp dụng những đổi mới về cây trồng đã tính toán thiệt hại kinh tế và môi trường của lệnh cấm cải dầu BĐG tại Úc. Các cơ quan quản lý của Úc đã phê duyệt sản xuất thương mại cải dầu BĐG vào năm 2004, tuy nhiên ngành cải dầu của Úc tin rằng dầu hạt cải không BĐG có thể được bán ở châu Á với giá cao hơn do đó Úc đã đưa ra lệnh cấm sản xuất cải dầu BĐG. Lệnh cấm này kéo dài vài năm ở các bang sản xuất cải dầu trọng điểm như Victoria, New South Wales và Tây Úc, nhưng mãi đến năm 2021 mới được dỡ bỏ hoàn toàn ở Nam Úc.
Biden và cộng sự đã tính toán tỷ lệ canh tác cải dầu BĐG ở miền Tây Canada trong thập kỷ đầu tiên từ 1997–2007 và so sánh với tỷ lệ này ở Úc vào năm 2004–2014 – điều này giúp họ ước tính tác động về kinh tế và môi trường của lệnh cấm. Sau một thập kỷ áp dụng lệnh cấm toàn bộ và cục bộ tại các bang của Úc đối với cải dầu BĐG, chi phí ước tính bao gồm: sử dụng thêm 6,5 triệu kg hóa chất; thêm 7 triệu lượt kiểm tra đồng ruộng làm tiêu tốn thêm 8,7 triệu lít nhiên liệu; thải ra thêm 24 triệu kg khí nhà kính; tác động môi trường của việc sử dụng thêm hóa chất cao hơn 14%; và nông dân Úc mất đi 485 triệu đô la Úc doanh thu từ trang trại. Những thiệt hại ước tính từ việc không áp dụng đổi mới như cây trồng BĐG đã nhấn mạnh sự gia tăng đáng kể về lượng hóa chất sử dụng và thiệt hại môi trường khi áp dụng các chính sách không dựa trên thực nghiệm.
Sự tiến bộ của công nghệ sản xuất cây trồng và đầu vào chắc chắn đã đóng một vai trò then chốt trong việc tăng năng suất cây trồng nói chung. Tuy nhiên, sự chuyển hướng từ hệ thống chính sách dựa trên bằng chứng khoa học và thực tế – điều đã giúp tăng sản lượng nông nghiệp trong thế kỷ 20 – sang các hệ thống chính sách phòng ngừa là một quan ngại lớn. Điển hình cho việc chuyển đổi này là quyết định cấm sử dụng hóa chất và phân bón tổng hợp của Sri Lanka. Quyết định này đã khiến sản lượng cây trồng giảm 54%, một con số đáng kể vào năm 2022. Chính vì vậy, sau một năm, Sri Lanka buộc phải thu hồi quyết định này do những hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra cho sản xuất lương thực của quốc gia.
Tương tự, chính phủ Pháp cũng áp đặt lệnh cấm hoạt chất neonicotinoids, một loại thuốc trừ sâu, vào năm 2014. Do thiếu các lựa chọn thay thế thuốc trừ sâu khả thi, sản lượng củ cải đường giảm dần theo từng giai đoạn của lệnh cấm và sau 3 năm cấm hoàn toàn, sản lượng củ cải đường giảm đến 50% vào năm 2020. Vì vậy, chính phủ Pháp đã phải hủy bỏ lệnh cấm đó và cho phép sử dụng neonicotinoid trong thời gian ba năm tiếp theo để giảm thiểu những hậu quả bất lợi đối với việc sản xuất củ cải đường. Với việc không được tiếp cận với các hóa chất neonicotinoid do lệnh cấm đó, nông dân buộc phải dựa vào các hóa chất cũ, độc hại hơn với môi trường và kém hiệu quả hơn.
Sự chuyển đổi của một số chính phủ từ các chính sách dựa trên bằng chứng sang các chính sách phòng ngừa đã cho thấy những tác động bất lợi sâu sắc đối với cả sản xuất lương thực và môi trường. Đáng chú ý, các tổ chức phi chính phủ về môi trường có vai trò quan trọng thúc đẩy sự thay đổi này khi sử dụng các chiến dịch thông tin sai lệch có chủ ý để gây ảnh hưởng đến chính phủ, người tiêu dùng và các nhà hoạch định chính sách. Do đó, các chính sách đã được xây dựng không chỉ nhằm cắt giảm sản xuất lương thực mà còn làm trầm trọng thêm các tác động môi trường liên quan đến quá trình sản xuất lương thực.
Sự phân nhánh của những thay đổi chính sách như vậy đòi hỏi sự quan tâm và xem xét kỹ lưỡng vì chúng có ý nghĩa sâu rộng đối với an ninh lương thực, tính bền vững môi trường và năng suất nông nghiệp nói chung. Các nhà hoạch định chính sách cũng như các bên liên quan phải thận trọng trong việc đánh giá tính hợp lệ và chắc chắn của bằng chứng đằng sau những phương án chính sách được đề xuất nhằm đảm bảo xây dựng các chiến lược hiệu quả và bền vững để từ đó thúc đẩy cả an ninh lương thực và bảo tồn môi trường.
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH VÀ CÁC TÁC ĐỘNG
Tại Canada, xung đột giữa Bộ Môi trường và Biến đổi khí hậu Canada (ECCC) và Cơ quan quản lý dịch hại (PMRA) liên quan đến việc sử dụng hóa chất trên vùng đất của hoàng gia đã làm rõ sự phức tạp xung quanh các chính sách sản xuất lương thực. Đề xuất cấm hóa chất cho các mục đích “thẩm mỹ” trên đất của hoàng gia, mặc dù đã được phê duyệt an toàn, gửi một thông điệp mâu thuẫn đến cộng đồng nông nghiệp và công chúng.
Cần có chiến lược giải quyết những thách thức hiện tại và đạt được sự cân bằng trong các chính sách sản xuất thực phẩm của Canada. Đầu tiên, cần đẩy mạnh phương pháp truyền thông khoa học. Một chiến lược truyền thông khoa học hiệu quả sẽ giúp thu hẹp khoảng cách kiến thức giữa người sản xuất thực phẩm ở nông thôn và người tiêu dùng thành thị. Các cơ quan chính phủ, học viện, tổ chức nghiên cứu và tổ chức nông nghiệp nên hợp tác để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các giải pháp đầu vào nông nghiệp khác nhau, chẳng hạn như hóa chất nông nghiệp, một cách minh bạch và dễ tiếp cận. Cung cấp bằng chứng khoa học để hỗ trợ người dùng sử dụng các sản phẩm này một cách an toàn có thể giúp xua tan thông tin sai lệch và thúc đẩy quá trình ra quyết định sáng suốt hơn.
Bộ Y tế Canada đã thực hiện hai cuộc đánh giá sâu rộng về tác động của việc sử dụng glyphosate ở Canada. Năm 2017, Bộ hoàn thành đánh giá, kết luận rằng glyphosate không gây rủi ro cho sức khỏe con người hoặc môi trường và đã phê duyệt cho phép sử dụng glyphosate trong vòng 15 năm tới. Phán quyết này vấp phải phản đối của nhiều cơ quan phi chính phủ về môi trường tại Quebec, do đó PMRA một lần nữa tiến hành đánh giá rủi ro lần thứ 2 vào năm 2019 và cho ra kết quả tương tự như đánh giá năm 2017. Trong thông báo đánh giá rủi ro năm 2019, PMRA tuyên bố chắc nịch: “không một cơ quan quản lý thuốc BVTV nào trên thế giới hiện coi glyphosate là có rủi ro gây ung thư cho con người ở mức độ phơi nhiễm hiện tại.” Dù chi phí của lần đánh giá thứ hai không hề nhỏ, nhưng đã khẳng định tính vững chắc của phương pháp đánh giá dựa trên cơ sở khoa học. Đáng tiếc là các tổ chức phi chính phủ về môi trường lại không thừa nhận tuyên bố dựa trên bằng chứng thuyết phục này và truyền đạt thông tin sai lệch về việc sử dụng glyphosate tại Canada.
Để hỗ trợ một cách tiếp cận truyền thông khác, đòi hỏi cần có sự thay đổi mô hình trong việc khái niệm hoá tính bền vững trong bối cảnh ngành nông nghiệp Canada. Khái niệm tính bền vững gồm 3 khía cạnh cơ bản: xã hội, kinh tế và bảo vệ môi trường. Do đó, để nông nghiệp thực sự thể hiện tính bền vững, chúng ta cần giải quyết một cách hiệu quả cả ba khía cạnh liên quan đến nhau này. Đã có nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tiềm năng vượt trội của nông nghiệp trong việc nâng cao thu nhập cho người nghèo so với các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc nông dân hay doanh nghiệp nông nghiệp là đối địch.
Nông nghiệp bền vững đúng nghĩa đòi hỏi sự tích hợp hài hòa giữa lợi ích xã hội, môi trường và kinh tế. Mục tiêu bao trùm của nó bao gồm đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho mọi thành viên trong xã hội, giảm bớt gánh nặng cho cộng đồng khỏi vòng đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho các gia đình nông dân và áp dụng các biện pháp nông nghiệp giúp tăng cường sức khỏe của đất đồng thời giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để đảm bảo sự bền vững môi trường. Điều này nhấn mạnh vai trò của việc phát triển chính sách thường xuyên hơn.
Giáo dục và tiếp cận cộng đồng cũng cần được ưu tiên. Thực hiện các chiến dịch giáo dục công có mục tiêu về thực hành và đổi mới nông nghiệp có thể giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết của người tiêu dùng. Thu hút công chúng tham gia đối thoại về lợi ích và rủi ro liên quan đến các đầu vào nông nghiệp khác nhau sẽ thúc đẩy niềm tin và niềm tin vào ngành nông nghiệp. Thúc đẩy đối thoại và hợp tác có ý nghĩa giữa các nhà hoạch định chính sách, nông dân, các bên liên quan trong ngành và các nhóm hoạt động môi trường có thể tạo điều kiện cho các chính sách cân bằng và thực tế hơn. Sự tham gia của tất cả các bên liên quan vào quá trình ra quyết định sẽ giúp đảm bảo quy định được đưa ra đã xem xét cả những quan tâm về môi trường cũng như tình hình sản xuất nông nghiệp thực tế.
Quy trình phê duyệt theo quy định đối với đầu vào nông nghiệp phải dựa trên cơ sở khoa học và minh bạch. Các cơ quan quản lý, chẳng hạn như PMRA, nên tiếp tục tiến hành đánh giá rủi ro kỹ lưỡng dựa trên nghiên cứu khoa học mới nhất để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp. Cùng với những trụ cột này, việc tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra giải pháp giải pháp thay thế, qua đó giảm sự phụ thuộc vào hóa chất đồng thời tăng năng suất. Nghiên cứu về giống cây trồng mới, công nghệ nông nghiệp chính xác và thực hành canh tác bền vững có thể thúc đẩy tăng trưởng và tính bền vững của nông nghiệp.
Điều cần thiết là phải xem xét khả năng cạnh tranh toàn cầu của sản xuất cây trồng và lương thực của Canada trong bối cảnh gánh nặng pháp lý. Khi Canada đặt mục tiêu duy trì vị thế là một nước cạnh tranh trên thị trường nông nghiệp toàn cầu, các nhà hoạch định chính sách phải đạt được sự cân bằng giữa các mối quan tâm về môi trường và việc sử dụng hóa chất thực tế.
Gánh nặng pháp lý quá mức có thể cản trở đổi mới và năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, mặc dù các cân nhắc về môi trường rất quan trọng nhưng điều cần thiết là phải áp dụng cách tiếp cận dựa trên rủi ro để xem xét lợi ích của các đầu vào nông nghiệp với rủi ro tiềm ẩn của chúng. Bằng cách tận dụng các kết luận khoa học mới nhất và tiến hành đánh giá rủi ro nghiêm ngặt, các nhà hoạch định chính sách có thể xây dựng các quy định đáp án tiêu chuẩn môi trường, đồng thời hỗ trợ năng suất và khả năng cạnh tranh của nông dân Canada.
Giải quyết những thách thức do khoảng cách kiến thức, các chiến dịch đưa thông tin sai lệch và các mối lo ngại về môi trường đặt ra đòi hỏi một cách tiếp cận nhiều mặt. Bằng cách ưu tiên đưa ra quyết định dựa trên cơ sở khoa học, thúc đẩy giáo dục và hợp tác công cộng cũng như khuyến khích các hoạt động bền vững, Canada có thể đạt được sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường và sử dụng hóa chất thực tế trong sản xuất thực phẩm.
Trong quá trình hoạch định quy định và chính sách, điều quan trọng là phải ghi nhớ khả năng cạnh tranh toàn cầu của nền nông nghiệp Canada. Đạt được sự cân bằng phù hợp sẽ đảm bảo nông dân Canada có thể tiếp tục phát triển trong thị trường quốc tế cạnh tranh đồng thời duy trì cam kết của họ đối với các hoạt động nông nghiệp bền vững và có trách nhiệm. Bằng cách đón nhận đổi mới sáng tạo, hoạch định chính sách sáng suốt và nỗ lực hợp tác, Canada có thể vạch ra con đường hướng tới một tương lai nông nghiệp có khả năng phục hồi và cạnh tranh toàn cầu.
Kết luận
Khoảng cách do thông tin sai lệch giữa người tiêu dùng thành thị và nhà sản xuất thực phẩm nông thôn đặt ra những thách thức không hề nhỏ đối với việc hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng. Khi nhu cầu thực hành sản xuất thực phẩm an toàn và bền vững ngày càng tăng, điều quan trọng là phải giải quyết lỗ hổng kiến thức này và thúc đẩy nhận thức về tầm quan trọng của các loại đầu vào nông nghiệp khác nhau, bao gồm cả hóa chất, trong việc đạt được các mục tiêu này. Để giải quyết vấn đề này, các nhà hoạch định chính sách phải ưu tiên đưa ra quyết định dựa trên cơ sở khoa học hơn là các phương pháp tiếp cận dựa trên phòng ngừa. Nhấn mạnh việc sử dụng bằng chứng khoa học đáng tin cậy và phân tích của chuyên gia sẽ giúp chống lại ảnh hưởng của các chiến dịch đưa thông tin sai lệch và ngăn chặn các quyết định chính sách sai lầm gây cản trở tiến bộ nông nghiệp.
Đổi mới vẫn là chìa khóa cho tương lai của ngành nông nghiệp, đảm bảo tính bền vững và đáp ứng nhu cầu của dân số toàn cầu đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, khoảng cách kiến thức giữa người sản xuất thực phẩm ở nông thôn và người tiêu dùng thành thị, cùng với sự phổ biến của các chiến dịch đưa thông tin sai lệch, đặt ra mối đe dọa lớn đối với việc hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng trong lĩnh vực nông nghiệp. Bằng cách nhận ra tác động của thông tin sai lệch và các thông điệp mâu thuẫn được gửi bởi các cơ quan quản lý khác nhau, các nhà hoạch định chính sách có thể đạt được những bước tiến trong việc thực hiện các chính sách mạnh mẽ và dựa trên cơ sở khoa học, từ đó đảm bảo một tương lai bền vững và thịnh vượng cho ngành sản xuất thực phẩm của Canada.
===
Tài liệu tham khảo:
- Thuốc BVTV trong thực phẩm (99,99% hoàn toàn tự nhiên). (Ames BN, Profet M, Gold LS. Dietary pesticides (99.99% all natural). Proc Natl Acad Sci USA. 1990;87(19):7777–81. doi:10.1073/pnas.87.19.7777.)
- Kiếm lời từ thông tin sai lệch trong nền kinh tế sức chú ý: Trường hợp của cây trồng biến đổi gen. (Ryan C, Schaul AJ, Butner R, Swarthout JT. Monetizing disinformation in the attention economy: The case of genetically modified organisms (GMOs). Eur Manag J. 2020;38(1):7–18. doi:10.1016/j.emj.2019.11.002.)
Hệ thống quản lý cỏ dại dựa trên máy xới đất do động vật kéo để sản xuất ngô ở cao nguyên phía Nam Tanzania. (Kwiligwa EM, Shetto RM, Rees DJ, Ley GJ. Weed management systems based on animal-drawn cultivators for maize production in the Southern Highlands of Tanzania. Soil Tillage Res. 1994;29(4):383–95.doi:10.1016/0167-1987(94)90110-4.)
Nhận thức và hạn chế của nông dân đối với việc áp dụng phương án kiểm soát cỏ dại: trường hợp của cây Striga Asiatica ở Malawi. (Atera E. Farmers perception and constraints to the adoption of weed control option: the case of Striga Asiatica in Malawi. J Agric Sci. 2012;4(5):41–50.doi:10.5539/jas.v4n5p41.)
Đánh giá các biện pháp quản lý cỏ dại tổng hợp trên ngô ở vùng thảo nguyên Bắc Guinea của Nigeria. (Chikoye D, Schulz S, Ekeleme F. Evaluation of integrated weed management practices for maize in the Northern Guinea Savanna of Nigeria. Crop Protect. 2004;23(10):895–900. doi:10.1016/j.cropro.2004.01.013.)
Kiểm soát cỏ dại của nông dân sản xuất nhỏ ở Ciskei, tỉnh Eastern Cape, Nam Phi. (Joubert A. Weed control by smallholder farmers in Ciskei, Eastern Cape Province, South Africa. In: Starkey P Simalenga T. editors Animal Power for Weed Control: a resource book of the Animal Traction Network for Eastern and Southern Africa (ATNESA). Wageningen, Netherlands: Technical Centre for Agriculture and Rural Cooperation; 2000. pp. 214–17.)
Quan điểm về rủi ro giảm năng suất đậu tương do cỏ dại ở Bắc Mỹ. (Soltani N, Dille J, Burke I, Everman W, Van Gessel M, Davis V, Sikkema P. Perspectives on potential soybean yield losses from weeds in North America. Weed Technol. 2017a;31(1):148–54. doi:10.1017/wet.2016.2.)
Ước tính thiệt hại năng suất đậu nành do dịch bệnh ở Hoa Kỳ và Ontario, Canada, từ năm 2015 đến năm 2019. (Bradley CA, Allen TW, Sisson AJ, Bergstrom G C, Bissonnette K M, Bond J, Byamukama E, Chilvers M I, Collins A A. et al. Soybean yield loss estimates due to diseases in the United States and Ontario, Canada, from 2015 to 2019. Plant Health Prog. 2021;22(4):483–95. doi:10.1094/PHP-01-21- 0013-RS)
Bệnh và sâu bệnh trên cây rau ở Canada. Ottawa: Hiệp hội côn trùng học Canada (Howard RL, Garland JA, Seaman WL. 1994. Diseases and pests of vegetable crops in Canada. Ottawa: Entomological Society of Canada. [Accessed 2023 Jul 19]. https://phytopath.ca/wp-content/uploads/2015/03/ DPVCC-Intro.pdf)
Quan điểm về rủi ro giảm năng suất đậu tương do cỏ dại ở Bắc Mỹ. (Soltani N, Dille J, Burke I, Everman W, Van Gessel M, Davis V, Sikkema P. Perspectives on potential soybean yield losses from weeds in North America. Weed Technol. 2017a;31(1):148–54. doi:10.1017/wet.2016.2)
Thiệt hại do côn trùng đậu nành năm 2021 ở Hoa Kỳ. (Musser FR, Catchot AL Jr, Davis JA. et al. 2021. 2021 soybean insect losses in the United States. [Accessed 2023 Jul 18]. https://www.midsouthentomologist.org.msstate. edu/pdfs/Vol15_1/15-5-Musser_etal%20small.pdf)
Ước tính thiệt hại năng suất đậu nành do dịch bệnh ở Hoa Kỳ và Ontario, Canada, từ năm 2015 đến năm 2019. (Bradley CA, Allen TW, Sisson AJ, Bergstrom G C, Bissonnette K M, Bond J, Byamukama E, Chilvers M I, Collins A A. et al. Soybean yield loss estimates due to diseases in the United States and Ontario, Canada, from 2015 to 2019. Plant Health editors. Pest management in Rice. New York: Springer; 1990. pp. 300–13. doi:10.1007/978-94-009-0775-1)
Rủi ro giảm năng suất ngô do cỏ dại ở Bắc Mỹ. (Soltani N, Dille JA, Burke IC, Everman WJ, Van Gessel MJ, Davis VM, Sikkema PH. Potential corn yield losses from weeds in North America. Weed Technol. 2017b;30(4):979–84. doi:10.1614/WT-D-16- 00046.1)
Ước tính thiệt hại năng suất đậu nành do dịch bệnh ở Hoa Kỳ và Ontario, Canada, từ năm 2015 đến năm 2019. (Bradley CA, Allen TW, Sisson AJ, Bergstrom G C, Bissonnette K M, Bond J, Byamukama E, Chilvers M I, Collins A A. et al. Soybean yield loss estimates due to diseases in the United States and Ontario, Canada, from 2015 to 2019. Plant Health editors. Pest management in Rice. New York: Springer; 1990. pp. 300–13. doi:10.1007/978-94-009-0775-1)
Sự thật chưa được tiết lộ về sâu bệnh: loài gây hại có thể khiến bạn mất từ 15-50% năng suất. (Morgan T. 2021. Unspoken truth about pests: this pest can cost you 15% to 50% in yield loss. [Accessed 2023 Jul 20]. https://www.agweb.com/news/crops/crop- production/unspoken-truth-about-pests-pest-can-cost -you-15-50-yield-loss)
Ước tính tổn thất năng suất ngô do dịch bệnh ở Hoa Kỳ và Ontario, Canada, từ năm 2016 đến năm 2019. (Mueller DS, Wise KA, Sisson AJ, Allen TW, Bergstrom GC, Bissonnette KM, Bradley CA, Byamukama E, Chilvers MI, Collins AA. et al. Corn yield loss estimates due to diseases in the United States and Ontario, Canada, from 2016 to 2019. Plant Health Progress. 2020;20(4):238–47. doi:10.1094/PHP-05-20- 0038-RS)
Rủi ro giảm năng suất lúa mì do cỏ dại ở Hoa Kỳ và Canada. (Flessner ML, Burke IC, Dille JA, Everman WJ, VanGessel MJ, Tidemann B, Manuchehri MR, Soltani N, Sikkema PH. Potential wheat yield loss due to weeds in the United States and Canada. Weed Technol. 2021;35(6):916–23. doi:10.1017/wet.2021.78)
Thiệt hại mùa màng gia tăng do côn trùng gây hại trong điều kiện khí hậu ấm lên. Deutsch CA, Tewksbury JJ, Tigchelaar M, Battisti DS, Merrill SC, Huey RB, Naylor RL. Increase in crop losses to insect pests in a warming climate. Science. 2018;361 (6405):916–19. doi:10.1126/science.aat3466
Tìm hiểu tình trạng mất năng suất và sinh học mầm bệnh để cải thiện việc quản lý dịch bệnh: septoria nodorum blotch – nghiên cứu trên lúa mì. (Ficke A, Cowger C, Bergstrom G, Brodal G. Understanding yield loss and pathogen biology to improve disease management: septoria nodorum blotch – a case study in wheat. Plant Dis. 2018;102 (4):696–707. doi:10.1094/PDIS-09-17-1375-FE)
Khảo sát thiệt hại năng suất do cỏ dại ở miền trung Alberta. (Harker N. Survey of yield losses due to weeds in central Alberta. Can J Plant Sci. 2000;81(2):339–42. Accessed 19 Jul 2023. https://cdnsciencepub.com/doi/pdf/10. 4141/P00-102)
Đánh giá vai trò của phương pháp xử lý hạt giống trong sản xuất cải dầu/hạt cải dầu: quản lý dịch hại tổng hợp, sức khỏe của loài thụ phấn và đa dạng sinh học. (Sekulic G, Rempel CB. Evaluating the role of seed treatments in canola/oilseed rape production: integrated pest management, pollinator health, and biodiversity. Plants. 2016;5(3):32. doi:10.3390/ plants5030032)
Thiệt hại về năng suất cây cải dầu do bệnh ung khí thán. (Wang Y, Strelkov SE, Hwang S-F. Yield losses in canola in response to blackleg disease. Can J Plant Sci. 2020;100(5):488–94. doi:10.1139/cjps-2019-0259)
Tổn thất năng suất lúa nhiệt đới do ảnh hưởng của thành phần hệ thực vật cỏ dại và thời điểm loại bỏ chúng. (Zoschke A. Yield losses in tropical rice as influenced by the composition of weed flora and the timing of its elimination. In: Grayson BT, Green MB Copping LG. editors. Pest management in Rice. New York: Springer; 1990. pp. 300–13. doi:10.1007/978-94-009-0775-1)
Đánh giá tổn thất năng suất lúa (Oryza sativa L.) do các nhân tố sinh học khác nhau trong hệ thống thâm canh lúa (SRI). (Mondal D, Ghosh A, Roy D, Kumar A, Shamurailatpam D, Bera S, Ghosh R, Bandopadhyay P, Majumder A. Yield loss assessment of rice (Oryza sativa L.) due to different biotic stresses under system of rice intensification (SRI). J Entomol Zool Stud. 2017;5(4):1974–80. Accessed 18 Jul 2023. https://www.entomoljournal.com/archives/2017/vol5is sue4/PartZ/5-4-314-134.pdf)
Tỷ lệ mắc bệnh và giảm năng suất lúa do tình trạng đổi màu hạt lúa. (Baite MS, Raghu S, Prabhukarthikeyan SR, Keerthana U, Jambhulkar NN, Rath PC. Disease incidence and yield loss in rice due to grain discolouration. J Plant Dis Prot. 2019;127(1):9–13. doi:10.1007/s41348- 019-00268-y)
Rau dền Palmer. (U.S. Department of Agriculture. 2017. Palmer amaranth. [Accessed 2023 Jul 18]. https://www.fsa. usda.gov/Assets/USDA-FSA-Public/usdafiles/ FactSheets/archived-fact-sheets/palmer_amaranth_ nrcs_national_factsheet.pdf)
Quản lý cây dại kochia trong nông nghiệp. (Government of Manitoba. n.d. Agriculture managing kochia. [Accessed 2023 Jul 19]. https://www.gov.mb.ca/ agriculture/crops/weeds/print-managing-kochia.html)
Phân tích tổng hợp về tác động của cây trồng biến đổi gen. (Klümper W, Qaim M. A meta-analysis of the impacts of genetically modified crops. PloS One. 2014;9(11): e111629. doi:10.1371/journal.pone.0111629.)
Những thay đổi trong việc sử dụng thuốc trừ cỏ sau khi trồng cải dầu kháng thuốc trừ cỏ ở miền Tây Canada. (Smyth SJ, Gusta M, Belcher K, Phillips PWB, Castle D. Changes in herbicide use after adoption of HR canola in Western Canada. Weed Technol. 2011a;25(3):492–500. doi:10.1614/WT-D-10-00164.1.)
Tác động môi trường từ việc sản xuất cải dầu kháng thuốc trừ cỏ ở miền Tây Canada. (Smyth SJ, Gusta M, Belcher K, Phillips PWB, Castle D. Environmental impacts from herbicide tolerant canola production in Western Canada. Agri Syst. 2011b;104 (5):403–10. doi:10.1016/j.agsy.2011.01.004.)
Đóng góp của glyphosate cho ngành nông nghiệp và tác động tiềm ẩn của việc hạn chế sử dụng trên toàn cầu. (Brookes G, Taheripour F, Tyner WE. The contribution of glyphosate to agriculture and potential impact of restrictions on use at the global level. GM Crops & Food. 2017;8 (4):216–28. doi:10.1080/21645698.2017.1390637.
Chi phí kinh tế và môi trường của việc trì hoãn áp dụng cây trồng biến đổi gen: ví dụ về lệnh cấm cải dầu biến đổi gen của Úc. (Biden S, Smyth SJ, Hudson D. The economic and environmental cost of delayed GM crop adoption: the case of Australia’s GM canola moratorium. GM Crops & Food. 2018;9(1):13–20. doi:10.1080/21645698.2018. 1429876)
Phương pháp phân tích rủi ro áp dụng đối với hành vi gian lận của người tiêu dùng đối với sản phẩm thực phẩm.( Théolier J, Barrere V, Charlebois S, Godefroy SB. Risk analysis approach applied to consumers’ behaviour toward fraud in food products. Trends Food Sci Technol. 2021;107:480–490. doi:10.1016/j.tifs.2020.11.017 )
Quyết định đánh giá lại RVD2017-01, Glyphosate. (Pest Management Review Agency. 2017. Re- evaluation Decision RVD2017-01, Glyphosate. [Accessed 2023 Jul 25]. https://www.canada.ca/en/health-canada/services/consumer-product-safety /reports-publications/pesticides-pest-management /decisions-updates/registration-decision/2017/glypho sate-rvd-2017-01.html)
Tuyên bố từ Bộ Y tế Canada về glyphosate. (Health Canada. 2019. Statement from Health Canada on glyphosate. [Accessed 2023 Jul 25]. https://www.canada.ca/en/health-canada/news/2019/01/statement-from-health-canada-on-glyphosate.html)
Vai trò của công nghệ lai tạo giống cây trồng mới đối với an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững. (Qaim M. Role of new plant breeding technologies for food security and sustainable agricultural development. Appl Eco Perspect Pol. 2020;42(2):129–50. doi:10.1002/ aepp.13044.)
Mô hình truyền thông về rủi ro cho các cơ quan quản lý thực phẩm trong xã hội hiện đại. (Charlebois S, Summan A. A risk communication model for food regulatory agencies in modern society. Trends Food Sci Technol. 2015;45(1):153–165. doi:10.1016/j. tifs.2015.05.004)
Nhìn nhận của người tiêu dùng Canada về nông nghiệp: giải quyết khoảng cách kiến thức. (Sutherland C, Sim C, Gleim S, Smyth SJ. Canadian consumer insights on agriculture: addressing the knowledge-gap. J Agri Food Info. 2020;21(1–2):50–72. doi:10.1080/10496505.2020.1724114)
Các tưởng tượng xã hội-công nghệ nổi bật về việc dùng cây trồng chỉnh sửa gen làm thực phẩm ở Hoa Kỳ: những tác động lên việc quản trị. (Bain C, Lindberg S, Selfa T. Emerging sociotechnical imaginaries for gene edited crops for foods in the United States: implications for governance. Agric Human Values. 2020;37(2):265–79. doi:https://doi.org/ 10.1007/s10460-019-09980-9)
Chính sách khí hậu và sản xuất cây trồng ở Canada: nghiên cứu về chất về quan điểm và nhận thức của nông dân đối với việc giảm nitrous oxide. (Vinco E, Morrison N, Bourassa J, Lhermie G. Climate policy and Canadian crop production: a qualitative study of farmers’ attitudes and perceptions towards nitrous oxide reductions. J Cleaner Prod. 2023:138108. doi:10.1016/j.jclepro.2023.138108.)
Bình luận